Trong 15 năm qua, Việt Nam đã nổi lên như một trung tâm sản xuất mạnh mẽ ở Châu Á Thái Bình Dương. Trong Chỉ số Hiệu suất Công nghiệp Cạnh tranh (CIP) 2020 , Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc ( UNIDO ) đã ghi nhận Việt Nam tăng hai bậc trong CIP – xếp hạng 38 vào năm 2018 trong chỉ số toàn cầu gồm 152 quốc gia từ vị trí thứ 41 vào năm 2017.
Báo cáo lưu ý rằng Việt Nam đã ở trong quỹ đạo đi lên về CIP kể từ năm 1990.
Trên thực tế, báo cáo cho biết Việt Nam đang vượt lên trên mức trung bình của thế giới về gần nhưng hai chỉ số hoạt động chính về năng lực cạnh tranh, đặc biệt là với hàng hóa sản xuất của nước này chiếm gần 90% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, cao hơn mức trung bình toàn cầu 60%.
Tuy nhiên, xếp hạng của Việt Nam xét về tỷ trọng các hoạt động công nghệ cao và trung bình trong sản xuất đã có dấu hiệu chững lại, giảm một bậc khi xếp thứ 40 vào năm 2018. Xếp hạng toàn cầu về tỷ trọng công nghệ trung bình và công nghệ cao. chỉ số giá trị gia tăng toàn ngành sản xuất chỉ tăng một bậc lên thứ 31 trong năm 2018.
Tiếp tục phát triển công nghiệp hóa
Vào tháng 9 năm nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 23 / NQ / TW, đề ra chính sách công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Luật đã được ký cách đây hơn hai năm vào tháng 3 năm 2018.
Kế hoạch hành động được xây dựng nhằm đưa Việt Nam vào nhóm ba nền kinh tế công nghiệp phát triển hàng đầu của ASEAN, khối kinh tế tiểu khu vực 10 quốc gia của Đông Nam Á.
Trong số các mục tiêu đặt ra bao gồm những điều sau:
- Khu vực công nghiệp sẽ chiếm trên 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam vào năm 2030, trong đó công nghiệp chế biến chế tạo chiếm khoảng 30% và riêng công nghiệp chế tạo chiếm trên 20%.
- Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%. Tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp bình quân hàng năm trên 8,5%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 10%.
- Nó cũng dự báo tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hàng năm 7,5% trong khu vực công nghiệp
- Tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ vượt 70%, xây dựng một số cụm công nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp quy mô lớn, đa quốc gia, có sức cạnh tranh toàn cầu.
Kế hoạch hành động quy định việc đưa ra các chính sách phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, cũng như tạo môi trường thuận lợi cho các cơ hội kinh doanh và đào tạo nhân tài – sử dụng khoa học và công nghệ để thúc đẩy công nghiệp hóa, đồng thời chú ý đến bảo vệ môi trường và có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu .
Viết trên Vietnam Briefing vào tháng 10, Julia Nguyễn cho biết Việt Nam có vẻ đang trên đà đạt được mục tiêu nằm trong nhóm ba nước ASEAN hàng đầu trong 10 năm tới.
“Từ năm 2006 đến năm 2016, Việt Nam đã leo 27 vị trí trong Chỉ số UNIDO CIP, theo dõi sự tiến bộ của lĩnh vực sản xuất của các nước. Điều này đã thu hẹp đáng kể khoảng cách giữa Việt Nam và các nước hàng đầu trong khu vực: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines ”, bà nói.
Lưu ý rằng Nghị quyết số 23-NQ / TW tập trung vào 3 yếu tố chính: giá trị gia tăng, xuất khẩu và tạo việc làm, bà chỉ ra những ngành có thể đóng góp nhiều nhất vào các yếu tố này cần được ưu tiên.
“Thực phẩm, dệt may và da giày, điện tử và ô tô là những ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất và có thể được hưởng lợi to lớn từ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đổi mới kỹ thuật, SME và hỗ trợ khởi nghiệp, cùng nhiều biện pháp can thiệp khác để giúp đất nước đạt được các mục tiêu của mình, ”cô nói.
Vietnam Briefing, xuất bản lần đầu vào năm 2009, cung cấp những hiểu biết sâu sắc về kinh doanh và đầu tư trong nước. Trang web được điều hành và quản lý bởi Dezan Shira & Associates , một công ty tư vấn đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng hơn 300 chuyên gia, bao gồm luật sư, kế toán, kiểm toán và chuyên gia kinh doanh trên khắp thế giới. Các chuyên gia địa phương tại công ty cung cấp các dịch vụ phù hợp với những thách thức độc đáo mà các doanh nghiệp quốc tế ở Châu Á phải đối mặt.
Ông Nguyên nêu những thách thức phía trước như phụ thuộc vào nhập khẩu nước ngoài cung cấp gần 8% nguyên liệu, phụ tùng và linh kiện cần thiết cho sản xuất, ngay cả khi các chính sách của Chính phủ và các nhà sản xuất trong nước đã đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp chủ chốt.
Tập trung vào Công nghiệp 4.0
Trong khi Nguyễn đồng ý rằng việc tập trung vào các lĩnh vực “đã được thử nghiệm và thử nghiệm” của Việt Nam sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, cô cho biết đất nước cũng cần chuẩn bị cho Công nghiệp 4.0 để duy trì sức cạnh tranh.
Bà nói: “Công nghiệp 4.0 giới thiệu các công nghệ như dữ liệu lớn, đám mây, Internet of Things (IoT) và nhiều công nghệ khác hứa hẹn sẽ tối ưu hóa quy trình sản xuất để tăng năng suất và lợi nhuận”.
Bà nhận xét rằng những bước đầu tiên của “cuộc cách mạng kỹ thuật số” ở Việt Nam đang được tiến hành.
Các chính sách về phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện, năng lực sáng tạo, nguồn nhân lực, các lĩnh vực và công nghệ ưu tiên đã được đưa ra nhằm đạt được tham vọng của đất nước là nằm trong nhóm các quốc gia Đông Nam Á hàng đầu trong bảng xếp hạng Chỉ số Đổi mới Toàn cầu (GII).
Năm 2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH & ĐT) đã ban hành dự thảo chiến lược quốc gia về Công nghiệp 4.0 và xây dựng chương trình quốc gia nhằm chuyển Việt Nam sang xã hội số vào thập kỷ tới.
“Có sự đồng thuận giữa chính phủ, các doanh nghiệp trong ngành và giới trí thức về những lợi ích và cơ hội của Công nghiệp 4.0. Các chuyên gia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có một chiến lược chặt chẽ và sự cần thiết phải hợp tác để tạo ra một hệ sinh thái hỗ trợ việc tạo ra các công nghệ tiên tiến.
Ông Nguyễn nói: “Sự phối hợp giữa các bộ và giữa khu vực tư nhân và nhà nước là đặc biệt quan trọng khi đối phó với những thách thức không thể tránh khỏi khi áp dụng Công nghiệp 4.0, chẳng hạn như dịch chuyển lao động và các vấn đề an ninh mạng”.